Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

Các giống gà tre có mặt hiện nay ở Việt Nam

1. Gà tre tân châu

 Gà tre tân châu là dòng gà cảnh trong nước có nguồn gốc từ thị xã Tân Châu thuộc tỉnh An Giang. Có nhiều giả thuyết giải thích về sự phát triển của giống gà này, nhưng có một giả thuyết được nhiều người đồng tình nhất: đó là sự kết hợp giữa loài gà rừng bản địa với một số dòng gà cảnh nhật bản đã du nhập vào vùng đất Nam Bộ từ thời xa xưa, còn chính xác là từ bao giờ thì cũng không có câu trả lời rõ ràng. Và còn một số giả thuyết khác nữa nhưng không có nhiều sự đồng thuận nên tôi không đưa vào bài viết này.
Gà tân châu có bộ lông dày, phồng nên thoạt nhìn mọi người sẽ nghĩ gà nặng trên 1kg, tuy nhiên với gà tân châu tiêu chuẩn khi trưởng thành thì gà trống nặng khoảng 0.9kg, gà mái nặng khoảng 0.6kg.
Đặc điểm nổi bật nhất của gà tân châu trống đó chính là bộ lông mịn màng, bóng, che kín toàn thân: Phần lông cổ mềm, mịn, dày, dài che kín từ dưới tai xuống đến giữa lưng của gà. Có thể nói bộ lông cổ là đặc điểm nổi bật nhất của gà tân châu. Phần lông thân mềm, mịn, dày và ôm sát thân, phần lông thân có diện tích hở tương đối ít do lông cổ phủ đến lưng và thân gà tân châu tương đối ngắn. Tiếp theo là phần lông mã lưng mềm, mịn, suông, dài đến chạm đất. Cuối cùng là bộ lông đuôi, với đặc điểm là lông đuôi nhiều, phân bố thành nhiều lớp, bản lông khá rộng, lông đuôi phía trên dài cong xuống mặt đất, lông đuôi cao không quá đầu.
Đó là đối với gà trống, còn gà mái thì không có gì nổi bật, chúng đều có những đặc điểm chung của giống gà mái: đầu nhỏ, mào nhỏ, màu da nhạt hơn, lông cổ – thân ngắn bám sát người, lông mã ngắn không phát triển, đuôi bản rộng nhưng không cong. Màu lông không phong phú và đẹp như gà trống.
Gà tân châu tuy đã phát triển rất phổ biến trên toàn quốc nhưng đây là giống gà cảnh của người Việt Nam nên về lâu dài chúng vẫn được người chơi ưa chuộng, sự phát triển của phong trào nuôi gà tân châu không quá mạnh mà nó phát triển từ từ và bền vững theo thời gian, là một giống gà cảnh của người Việt.

2. Gà tre mỹ

Song hành với phong trào nuôi gà đá mỹ, gà peru là trào lưu nuôi gà tre mỹ, giống gà cảnh ngoại được nhiều người ưa chuộng bởi hình dáng thon gọn, bộ lông màu sắc sặc sỡ và hoàn toàn khác biệt so với những giống gà cảnh khác. Tuy trào lưu nuôi gà tre mỹ không phát triển rầm rộ như gà tân châu nhưng trong giới chơi gà tre mỹ luôn có sự phát triển chậm và bền vững, người chơi không quá chạy theo phong trào nên giá trị của gà tre mỹ vẫn ổn định.
Các dòng gà tre mỹ tại Việt Nam hiện nay chủ yếu được lai tạo với dòng gà khác như gà peru, gà asil, gà rừng. Gà tre mỹ rặc với đặc tính hung hăng, máu chiến, bo đá lớn và tốc độ, chúng được lai với một chút máu peru (thường từ 10%-20% máu peru) để tăng tốc độ đá, bay cao hơn, bo cánh và chân mạnh hơn. Gà peru có nhiều đặc tính tốt hơn gà mỹ nhưng chúng lại chỉ phù hợp với đá cựa dao nên khi lai với gà tre mỹ thì chỉ nên lai ít để gà mỹ vẫn phù hợp với đá cựa tròn. Người chơi có thể châm thêm ít máu gà asil để chúng có thêm độ thông minh và xài cựa tròn một cách chính xác hơn và đặc biệt hơn là hình dáng phù hợp hơn khi chọi gà ở Việt Nam.

3. Gà serama

Có thể nói gà Serama là giống gà có kích thước và khối lượng nhỏ nhất thế giới loài gà, ngoài đặc điểm trên thì yếu tố hình dáng của gà serama là một đặc điểm quan trọng nhất và là điểm đặc trưng của chúng trên toàn thế giới. Người chơi gà serama thường ví chúng như một công trình nghệ thuật về dáng đứng giàu sang phú quý với bộ ngực nở nhô hết cỡ về phía trước, dáng đứng thẳng, cánh thẳng chạm đất che phủ gần hết chân và bộ lông đuôi thẳng đứng gần chạm mồng gà.

Nói về nguồn gốc của gà serama thì những người chơi dòng gà này đều biết nguồn gốc của chúng, tuy nhiên để mà hiểu cặn kẽ chúng xuất hiện như thế nào thì không phải ai cũng hiểu rõ tường tận. Gà serama là giống gà của người Malaysia, là biểu tượng của đất nước với dáng đứng thẳng như những chiến binh dũng cảm.
Từ những năm 2000 đến nay, gà serama đã được du nhập vào nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là Mỹ rồi đến Vương quốc Anh, Hà Lan sau đó  phong trào nuôi serama lan ra các nước khác tại châu âu. Tại Mỹ, gà serama được nhập với số lượng lớn sau đó chúng được lai tạo theo cách riêng biệt để tạo ra dòng gà serama mỹ hay serama phong cách mỹ. Tiếp theo là Vương quốc Anh và Hà Lan ở đây gà serama cũng được nhập từ Mỹ và một phần nhỏ nhập từ Malaysia. Tại Việt Nam, phong trào nuôi gà serama cũng chỉ mới nổi trong vài năm gần đây (khoảng năm 2012).
Trên đây là một số giống gà tre có mặt tại Việt Nam !Chú bạn vui vẻ!

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Bốn bước để lập trang trại

Dành thời gian học việc ở một trang trại nào đó, nghe chia sẻ từ cộng đồng nhà nông để có những hiểu biết tổng thể là bước quan trọng nhất trong hành trình gắn bó với nông nghiệp.
1. Học cách làm trang trại
Nếu là một người chưa biết nhiều về nông nghiệp, bạn cần dành thời gian để nghiên cứu tất cả. Dĩ nhiên, không thể biết hết mọi thứ mà bạn chỉ cần nắm những nội dung cần quan tâm. Một số công việc đòi hỏi bạn phải thực hành, thử làm và mắc sai lầm, đôi khi tốn nhiều thời gian và tiền bạc. Nhưng một khi quyết định gắn bó với nghiệp nhà nông thì tất cả điều này không thể nào tránh khỏi.
Nếu tìm được một nhà tư vấn, bạn có thể học trực tiếp từ họ hoặc gặp gỡ và chia sẻ kiến thức nông nghiệp với các thành viên trong hiệp hội nông dân, cộng đồng nhà nông. Đây là cách thức hữu ích. Nếu chưa có ai hướng dẫn, bạn nên vào làm ở nông trại để tích lũy kinh nghiệm trước khi bắt đầu trở thành một ông chủ trang trại.
2. Thiết kế và lên kế hoạch
Một phần quan trọng khi lập trang trại là hình dung việc kinh doanh này sẽ diễn tiến như thế nào. Chẳng hạn, bạn muốn lập nông trại trồng rau quy mô nhỏ hay đa dạng hóa việc trồng trọt bằng cách nuôi nhiều động vật và trồng một số loại cây khác. Hoặc có thể bạn lên ý tưởng hình thành nông trang dành cho du lịch sinh thái, nơi khách tham quan sẽ có những trải nghiệm thú vị khi tham gia vào công việc nhà nông.
Ngay cả khi chưa sở hữu mảnh đất nào, bạn cũng nên dành thời gian nghĩ đến kế hoạch lập trang trại để ước chừng thời điểm tiến hành. Ngoài ra, việc tìm kiếm đất nông nghiệp là một trong những bước quan trọng sau khi xem xét đến một số yếu tố khác.
3. Lập kế hoạch kinh doanh
Các chuyên gia khuyên rằng khi bạn mới bắt đầu lập trang trại nên đưa thông tin chi tiết về dự toán chi phí và ước tính doanh thu. Ngoài ra, bạn nên mô tả nông trại sẽ vận hành như thế nào, cùng với danh sách dự kiến sử dụng bao nhiêu lao động, mô tả công việc và mức lương dự tính chi trả cho họ.
Trong nội dung bản kế hoạch nên có một số phần như phân tích thị trường, nguồn cung và cầu cũng như các hoạt động gắn liền với tình hình nông trại. Lập kế hoạch tài chính cũng phải nằm trong kế hoạch kinh doanh, nhằm thiết lập hệ thống sổ sách kế toán từ khi khởi đầu lập trang trại. Bước này giúp bạn có thể thực hiện ước mơ nhằm biến dự án trên giấy thành hiện thực.
4. Tìm nhà đầu tư và huy động vốn
Bạn có thể không đủ số vốn cần thiết để lập một trang trại như mong muốn. Vì thế, bạn sẽ phải bắt đầu từ quy mô nhỏ bằng việc tích cóp ngân sách hàng tháng của gia đình để đầu tư vào trang trại. Tuy nhiên, cách này mất nhiều thời gian bởi không thể đầu tư ngay một số tiền lớn để tạo ra thành phẩm cuối cùng đem bán cho thị trường. Tuy nhiên, có một phương án khác để khắc phục là kêu gọi tài trợ từ bên ngoài để góp vốn hoặc có thể vay, mượn ngân hàng, bạn bè, người thân.
Bên cạnh đó, bạn nên tìm hiểu về luật để biết quy trình thành lập trang trại, cụ thể là đăng ký giấy phép kinh doanh hay được cấp mã số hoạt động trang trại…

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Hiện nay, mô hình nuôi chim bồ câu làm kinh tế đang được nhân rộng ra rất nhiều tỉnh thành trong cả nước, phổ biến ở các tỉnh: Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương, Thanh Hóa, Quảng Trị, Đắk Lắk, Bình Định,…Quy trình nuôi đơn giản, không đòi hỏi đầu tư nhiều, nhu cầu thị trường rất lớn, hiệu quả kinh tế từ nuôi chim bồ câu đã được khẳng định, đem lại thu nhập lớn cho bà con nông dân.
Trong các mô hình nuôi chim Bồ Câu lấy thịt, giống bồ câu Pháp được lựa chọn nhiều nhất bởi đây là giống chuyên thịt nổi tiếng, mỗi năm một cặp có thể đẻ 8-9 lứa, trọng lượng chim ra ràng (28 ngày tuổi) đạt 530-580g/con. Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%. 
Chim bồ câu ra ràng thường được dùng làm thực phẩm như nấu cháo, hầm thuốc bắc để tẩm bổ sức khoẻ. Theo đông y, thịt bồ câu tính bình, vị mặn, dinh dưỡng phong phú, thơm, vị ngọt, là loại thực phẩm tốt cho người già, trẻ em, người bệnh và sản phụ. Trứng bồ câu có chứa protein 9,5%, chất béo 6,4%, hợp chất đường và calci, sắt, phốt pho…
Thịt chim bồ câu có tác dụng bổ thận kiện tì vị, ích khí huyết, dùng cho trường hợp gầy yếu, hư nhược, tiêu khát, hay quên, mất ngủ, thần kinh suy nhược, dinh dưỡng không tốt,… Trong y học cổ truyền, chim bồ câu được dùng với tên thuốc là cáp điểu hay gia cáp gồm thịt chim (cáp điểu nhục), tiết chim (cáp điểu huyết). Trong một số trường hợp, trứng chim (cáp điểu noãn) cũng được dùng. Chính bởi những đặc tính quý này nên thịt chim bồ câu rất có giá trên thị trường: một cặp giống bán ra trung bình khoảng 600 ngàn đồng/cặp, còn bồ câu ra ràng 120 ngàn đồng/cặp.
Theo anh Vũ Trọng Tạo- chủ Cơ sở nuôi chim bồ câu Sáng Tạo: “Nuôi chim bồ câu không khó, bởi chúng rất ít bị bệnh lại dễ tính, chỉ cần làm cho chim bồ câu chỗ ở thoáng mát, sạch sẽ và đầy đủ ánh sáng là được. Về nguồn thức ăn thì rất đơn giản, một ngày chim bồ câu ăn 2 bữa, chủ yếu là thóc và ngô cùng với nguồn nước uống sạch. Không phải lo về tiêu thụ sản phẩm, vì bồ câu là thức ăn quý và bổ dưỡng nên khách hàng thường vào tận nơi đặt hàng, nhiều khi không có đủ để cung cấp ra thị trường”.
Gia đình anh Tạo đến với nghề nuôi chim bồ câu rất tình cờ, đó là khi anh thấy có nhà một người bạn nuôi chim bồ câu lai thấy cho hiệu quả kinh tế cao, anh thấy say luôn nghề nuôi chim bồ câu. Và anh đã tự tìm tòi kỹ thuật nuôi chim trên mạng Internet, sách báo, tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, thăm quan các mô hình đã nuôi thành công tại miền Bắc và Nam  rồi anh quyết định đầu tư nuôi 50 đôi chim giống Pháp về nuôi thử. Qua thời gian nuôi thử nghiệm, tìm hiểu nhu cầu của thị trường, anh Tạo nhận thấy nuôi bồ câu là hướng đi mới đem lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.
Cơ sở nuôi chim bồ câu Sáng Tạo, thôn Tón, xã Việt Ngọc, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang
Với suy nghĩ đó, anh Tạo đã quyết tâm mở rộng mô hình nuôi chim bồ câu. Đến nay, gia đình anh đã có khoảng gần 400 cặp bồ câu bố mẹ sinh sản và luôn có 100 cặp bồ câu giống hậu bị sinh sản để phục vụ nhu cầu con giống. Với mô hình nuôi chim bồ câu, anh Tạo đã trở thành điển hình làm kinh tế giỏi của xã, được nhiều người trong và ngoài tỉnh đến tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm.
Trên cơ sở tổng hợp thông tin và tham khảo kinh nghiệm của một số chủ cơ sở nuôi chim bồ câu, bài viết sau đây sẽ đúc kết lại những bước cơ bản nhất trong quy trình nuôi chim bồ câu: 
1. Chọn giống chim bồ câu
Chim bồ câu được chọn làm giống phải đảm bảo các yêu cầu: khỏe mạnh, lông mượt, không có bệnh tật, dị tật, lanh lợi: con trống to hơn, đầu thô, có phản xạ gù mái (lúc thành thục), khoảng cách giữa 2 xương chậu hẹp; con mái thường có khối lượng nhỏ hơn, đầu nhỏ và thanh, khoảng cách giữa 2 xương chậu rộng.
Tuy nhiên, lúc bé rất khó phân biệt, ngay cả khi trưởng thành độ chính xác cũng khó đạt 100% nên khi mua cần tham khảo ý kiến của nơi mua hoặc các nhà chuyên môn đã có kinh nghiệm. Do bồ câu là loài chim đơn phối vì vậy khi nuôi sinh sản nên nuôi riêng lẻ từng cặp. Mỗi cặp bồ câu sinh sản có thể dùng sản xuất trong 5 năm, nhưng sau 3 năm đẻ, khả năng sinh sản giảm, do vậy cần phải tuyển lựa loại bỏ và thay chim bố mẹ mới.
Để có con giống chất lượng tốt người nuôi nên tìm mua tại các trại, các cơ sở có uy tín, có quy mô và kinh nghiệm nhiều năm trong chăn nuôi bồ câu. Tại đó, bạn có thể được cung cấp những kinh nghiệm quý báu từ thực tế chăn nuôi, được hỗ trợ về kỹ thuật chuồng trại, cách chăm sóc, phòng trị bệnh tốt nhất. 
2. Chuồng nuôi 
Theo kinh nghiệm, chuồng nuôi chim bồ câu phải thoáng mát thì chim mới mau lớn. Nếu là nuôi thả tự do thì chuồng nuôi yêu cầu phải có mái che mưa, nắng, có ổ cho chim mái đẻ trứng. Nếu nuôi chim để sinh sản và khai thác thịt cần có chuồng nuôi khác nhau.
Làm chuồng nên lấy tre chẻ ra thành nan, sau đó làm thành phên ghép lại. Chuồng nuôi phải có ánh sáng mặt trời, khô ráo, thoáng mát, sạch sẽ, tránh gió lùa, tránh ồn ào. Nên chia chuồng thành các ô nhỏ cho mỗi cặp chim: chiều cao 40 cm, chiều sâu 40 cm, chiều rộng 50 cm. Mỗi ô chuồng cần 2 ổ đẻ trứng và ấp trứng đặt ở trên, một ổ nuôi con đặt ở dưới. Phía trước ô khoét lỗ to bằng miệng bát cơm để chim có thể ra vào. Máng ăn và máng uống cho chim nên dùng bằng gỗ hoặc chất dẻo, không nên làm bằng kim loại, đảm bảo vệ sinh.
Có 2 loại chuồng nuôi chim cơ bản:
a. Chuồng nuôi cá thể (dùng nuôi chim sinh sản từ 6 tháng tuổi trở đi)
Mỗi cặp chim sinh sản cần một ô chuồng riêng. Ô chuồng là một đơn vị sản xuất, trên đó được đặt các ổ đẻ, máng ăn, máng uống, máng đựng thức ăn bổ sung và 1 đôi trống mái sinh sản. Kích thước của một ô chuồng: Chiều cao: 40 cm; Chiều sâu: 60 cm; Chiều rộng: 50 cm
b. Chuồng nuôi quần thể: được chia làm 2 loại:
 Chuồng nuôi chim hậu bị sinh sản (từ 2-6 tháng tuổi): Kích thước của 1 gian: Chiều dài: 6m; Chiều rộng: 3,5m; Chiều cao: 5,5m (cả mái). Máng ăn, máng uống, ổ đẻ, máng đựng thức ăn bổ sung được thiết kế riêng cho kiểu chuồng này.
Chuồng nuôi dưỡng chim thịt (nuôi vỗ béo chim thương phẩm từ 21-30 ngày tuổi): mật độ dày hơn 45-50 con/m2, không có ổ đẻ, không có máng ăn (chúng ta phải nhồi trực tiếp cho chim ăn), ánh sáng tối thiểu.
3. Các thiết bị nuôi
- Ổ đẻ: dùng để chim đẻ, ấp trứng và nuôi con: do đang trong giai đoạn nuôi con, chim bồ câu đã đẻ lại, nên mỗi đôi chim cần hai ổ đẻ, ổ ấp trứng đặt ở trên, ổ để nuôi con đặt ở dưới. 
Ổ đẻ có thể làm bằng gỗ, hoặc chất dẻo nhưng yêu cầu phải khô ráo, sạch sẽ, tiện cho việc vệ sinh thay rửa thường xuyên, có thể sử dụng rơm lót ổ đẻ. Kích thước của ổ: Đường kính: 20 cm - 25cm, chiều cao: 7cm - 8cm.
Máng ăn: Kích thước máng ăn cho một đôi chim bố mẹ: Chiều dài: 15cm; Chiều rộng: 5cm; Chiều sâu: 5cm x 10 cm.
Máng uống: Có thể vỏ dùng đồ hộp, cốc nhựa…với kích thước dùng cho một đôi chim bố mẹ: Đường kính: 5-6 cm; chiều cao: 8 -10 cm.
Mật độ nuôi chim: Nếu nuôi nhốt theo kiểu ô chuồng thì mỗi ô chuồng là một đôi chim sinh sản. Nếu nuôi thả trong chuồng thì mật độ là 6-8 con/m2 chuồng. Khi được 28 ngày tuổi, chim non tách mẹ, lúc này nuôi với mật độ gấp đôi nuôi chim sinh sản (10-14 con/m2).
Chế độ chiếu sáng: Chuồng trại phải thiết kế thoáng đảm bảo cung cấp đủ ánh sáng cho chim. Tuy nhiên ở miền Bắc ban ngày mùa đông ánh sáng ngắn, có thể lắp bóng đèn 40w chiếu sáng thêm vào ban đêm (nếu nuôi theo quy mô lớn) với cường độ 4-5w/m2 nền chuồng với thời gian 3-4h ngày.
4. Dinh dưỡng và thức ăn nuôi chim
a.Các loại thức ăn thường sử dụng nuôi chim
Thông thường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật: đỗ, ngô, thóc, gạo… và một lượng cần thiết thức ăn đã gia công chứa nhiều chất khoáng và vitamin.
+ Đỗ bao gồm: đỗ xanh, đỗ đen, đỗ tương,…Riêng đỗ tương hàm lượng chất béo nhiều nên cho ăn ít hơn và phải được rang trước khi cho chim ăn.
+ Thức ăn cơ sở: thóc, ngô, gạo, cao lương,..trong đó ngô là thành phần chính của khẩu phần. Yêu cầu của thức ăn phải đảm bảo sạch, chất lượng tốt, không mốc, mọt.
Chim bồ câu cần một lượng nhất định các hạt sỏi, giúp cho chim trong quá trình tiêu hoá của dạ dày (mề). Kích cỡ của các hạt: dài 0,5-0,8mm, đường kính 0,3-0,4mm. Vì vậy nên để sỏi vào máng dành riêng đựng thức ăn bổ sung cho chim ăn (trộn cùng với muối ăn và khoáng Premix).
b.Cách phối trộn thức ăn
Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): Khoáng Premix: 85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%. Thông thường lượng hạt đậu đỗ từ 25-30%; ngô và thóc gạo: 75-75%. Bổ sung liên tục trong máng cho chim ăn tự do.
Tuy nhiên hỗn hợp được trộn nên dùng với một lượng vừa phải. Không nên để thức ăn bổ sung quá nhiều trong một thời gian dài gây biến chất các thành phần có trong hỗn hợp.
Khi phối trộn thức ăn, càng nhiều thành phần càng tốt, đảm bảo đủ chất lượng và bổ sung hỗ trợ cho nhau đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, nguyên liệu khác nhau cách phối hợp cũng khác nhau, thông thường lượng hạt đậu đỗ từ 25-30%; ngô và thóc gạo 75-75%.
c.Cách cho ăn
- Thời gian: 2 lần trong ngày buổi sáng lúc 8-9h, buổi chiều lúc 14-15 h, nên cho ăn vào một thời gian cố định trong ngày.
- Định lượng: Tuỳ theo từng loại chim mà chúng ta cho ăn với số lượng thức ăn khác nhau, thông thường lượng thức ăn= 1/10 trọng lượng cơ thể:
- Chim 2-5 tháng tuổi: 40-50g thức ăn/con/ngày:
- Chim sinh sản: (6 tháng tuổi trở đi)
+ Khi nuôi con: 125-130g thức ăn/đôi/ngày
+ Không nuôi con: 90-100g thức ăn/đôi/ngày
d. Nước uống
Nhu cầu nước uống của chim bồ câu không lớn, nhưng cần có đủ nước để chim uống tự do. Nước phải sạch sẽ, không màu, không mùi và phải thay hằng ngày.
Có thể bổ sung vào trong nước Vitamin và kháng sinh để phòng bệnh khi cần thiết, trung bình mỗi chim bồ câu cần 50-90ml/ngày.
5. Cách nuôi dưỡng và chăm sóc chim bồ câu
Khi ghép đôi xong, quen với chuồng và ổ, chim sẽ đẻ. Trước khi chim đẻ, chuẩn bị ổ (chỉ dùng 1 ổ). Dùng rơm khô, sạch sẽ và dài để lót ổ; ở những lứa đầu tiên chim thường có hiện tượng làm vãi rơm gây vỡ trứng, do đó nên bện 1 vòng rơm lót vừa khít đường kính của ổ. Nơi ấp trứng phải yên tĩnh, đặc biệt với chim ấp lần đầu nên giảm bớt tầm nhìn, âm thanh, ánh sáng để chim chuyên tâm ấp trứng.
Trong thời kỳ chim nuôi con (từ khi nở đến 28 ngày tuổi) cần thay lót ổ thường xuyên
Khi chim ấp được 18-20 ngày sẽ nở, nếu quả trứng nào mổ vỏ lâu mà chim không đạp vỏ trứng chui ra thì người nuôi cần trợ giúp bằng cách bóc vỏ trứng để chim non không chết ngạt trong trứng. 
Trong thời kỳ nuôi con (từ khi nở đến 28 ngày tuổi), cần thay lót ổ thường xuyên (2-3 ngày/lần hoặc có thể 1 tuần/lần), để tránh sự tích tụ phân trong ổ vì đó là nơi lý tưởng cho ký sinh trùng, vi khuẩn và virus sinh sôi nảy nở. 
 Khi chim non được 7-10 ngày mới tiến hành cho ổ đẻ thứ hai vào. Sau khi tách mẹ, ổ đẻ tương ứng được bỏ ra rửa sạch, phơi khô để bố trí lứa đẻ tiếp theo. Sau khi được 28-30 ngày tuổi chúng ta tiến hành tách chim non khỏi mẹ.
Sau khi rời ổ, chim non chuyển sang một giai đoạn mới phải tự đi lại, tự ăn. Giai đoạn này chim còn yếu, khả năng đề kháng và khả năng tiêu hoá kém dễ sinh bệnh. Do đó cần chú ý công tác chăm sóc nuôi dưỡng. Giai đoạn này nên bổ sung Vitamin A, B, D, các chất kháng sinh...vào nước uống để chống mềm xương, trợ giúp tiêu hoá và chống các bệnh khác. Trong giai đoạn đầu có một số con chưa quen cuộc sống tự lập không biết ăn, uống do đó người nuôi phải kiên nhẫn tập cho chim non.
Nuôi vỗ béo chim lấy thịt: tiến hành tách mẹ lúc 20-21 ngày tuổi (khối lượng cơ thể đạt 350-400g/con) dùng nhồi vỗ béo với mật độ: 45-50 com/m2, không để không gian cho chim hoạt động nhiều, đảm bảo ngoài giờ ăn, uống thì thời gian ngủ là chính. Thức ăn dùng để nhồi: Ngô: 80%, đậu xanh 20%. Cách nhồi: Thức ăn được nghiền nhỏ, viên thành viên nhỏ ngâm cho mềm rồi sấy khô đảm bảo tỷ lệ thức ăn/nước: 1:1. Định lượng: 50-80 g/con; nhồi 2-3 lần/ngày; dùng tay nhét thức ăn vào miệng chim hoặc máy nhồi như vịt; khoáng vẫn được bổ sung tự do, các loại vitamin, thuốc bổ khác được bổ sung trong nước uống.
6. Phòng và trị bệnh cho chim bồ câu
Chim bồ câu có sức đề kháng với dịch bệnh khá tốt, nhưng nếu nuôi theo đàn trong một không gian hẹp thì nguy cơ mắc bệnh là khá lớn. Muốn cho chim bồ câu khỏe mạnh, có sức đề kháng tốt thì trước hết chim phải được nuôi dưỡng trong môi trường tốt, thức ăn được cung cấp đầy đủ.
- Một năm tiêm vác xin phòng bệnh 3 lần cho chim.
- Vệ sinh chuồng trại cho chim bồ câu sạch sẽ. Nên định kỳ 2-3 tháng dọn dẹp làm vệ sinh chuồng, sửa chữa và làm mới chỗ hư hỏng, cạo sạch phân, thay ổ đẻ, phun thuốc sát trùng chuồng.
- Vệ sinh máng ăn, máng uống: hàng ngày nên rửa máng uống để tránh cho chim uống nước bẩn, đã lên men do cặn thức ăn đọng lại trong máng. Lồng vận chuyển chim bồ câu cũng là nguồn lây bệnh cho chim, vì ở chuồng có chim bị bệnh và chết thì dễ dàng lây nhiễm bệnh sang chuồng khác. Vì thế lồng khi dùng để vận chuyển chim mới cần phải được lau rửa sát trùng cẩn thận.
- Hạn chế cho chim lạ vào chuồng. Tránh để phân chim vương vãi ra mọi nơi. Phóng tránh chuột, mèo, chó,… tấn công chim.
- Một số bệnh thường gặp ở chim bồ câu như: bệnh kẹt trứng, trứng vỏ mềm, bệnh cầu trùng, bệnh đậu mùa, bệnh herpes virus đường hô hấp,… Cần phải theo dõi kỹ nếu chim bị mắc các bệnh đó thì nên đến các cơ sở hỗ trợ chăn nuôi để được tư vấn loại thuốc phù hợp.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ quy trình nuôi chim bồ câu Pháp cho năng suất cao qua bài phỏng vấn ngắn kỹ sư nông nghiệp Nguyễn Thị Phương Dung, công tác tại Trung tâm khuyến nông Bình Dương:
Kinh nghiệm nuôi chim bồ câu hiệu quả
Để nuôi chim bồ câu đạt hiệu quả cao, ngoài nắm vững kỹ thuật nuôi, người nuôi cũng nên nằm lòng một số bí quyết. Anh Nguyễn Văn Ơi, thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên chia sẻ một số kinh nghiệm nuôi chim bồ câu hiệu quả:
Cho chim tập làm quen với kẻ thù: Chim bồ câu sợ nhất là mèo và rắn, nên tập cho chim làm quen với chúng bằng cách: Cứ mỗi lần cho chim ăn anh kèm theo con mèo bên cạnh. Lần đầu cho chim thấy mèo, lần sau bắt 2 con lên tay, lần nữa thả mèo cùng ăn với chim. Dần dần 2 con gần gũi nhau, mèo không vồ chim, chim không sợ mèo. Bằng cách đó anh dùng con rắn nhựa làm quen với chim, cho rắn vào chuồng chim. Cứ như thế đàn chim của anh coi mèo, rắn là bạn bè vì thế mà không bỏ đi nơi khác.
Giữ chim ở lại chuồng tránh tình trạng chim bay bỏ chủ mà đi chủ khác: Để giữ chúng cần tập cho chim quen hơi chủ bằng cách nuôi chim càng non càng tốt.
Thường xuyên thăm nom các ổ chim mới nở tạo cho chim không bị sốc về sau, chim trở nên “dạn” gần gũi với chủ hơn.
Cho ăn đúng giờ tạo thói quen, dù có đi ăn xa khi đến giờ ăn chim rủ nhau về nhà để ăn thức ăn quen thuộc của chủ.
Về khả năng sinh sản, muốn chim đẻ đều, tỷ lệ nở cao, con khỏe, nuôi chóng lớn thì cần cho chim ăn đầy đủ, nhất là cám tổng hợp. Nếu nuôi tốt 1 con bồ câu mái sau 4 -5 tháng tuổi bắt đầu đẻ lứa đầu, mỗi lứa đẻ 2 trứng. Sau khi ấp 16 – 18 ngày sẽ nở. Chim con sẽ được giao cho chim trống nuôi dưỡng. Chim mái nghỉ dưỡng sau 7- 10 ngày thì đẻ lứa tiếp theo. Cứ như thế 1 cặp bồ câu bố mẹ sau 1 năm cho ra đời 17 cặp con cháu.
Theo đánh giá của nhiều hộ nuôi chim bồ câu thì tìm đầu ra cho sản phẩm này không khó. Nhu cầu của người dân, các nhà hàng, khách sạn tiêu thụ thịt chim bồ câu khá cao. Một cặp giống bán ra trung bình khoảng 600 ngàn đồng, còn bồ câu ra ràng 120 ngàn đồng/cặp.
Anh Nguyễn Minh Tâm, thôn Thiện Trung, xã Thiện Nghiệp, TP Phan Thiết cho biết:  “Nuôi bồ câu không phải lo khâu tiêu thụ. Bồ câu ra ràng là thức ăn ngon và bổ dưỡng. Nhiều gia đình có người đau ốm hay già yếu thường hay đến mua về hầm thuốc bắc để bồi bổ cơ thể. Các nhà hàng trên địa bàn muốn mua phải đặt trước mới có. Bồ câu ra ràng nếu không muốn bán thịt thì để nuôi vẫn tiếp tục sinh lợi”
Ngoài bán sản phẩm bồ câu ra ràng phục vụ nhu cầu của khách, gia đình anh Tâm còn cung cấp giống cho các hộ nuôi trong và ngoài tỉnh.
Mô hình làm giàu từ nuôi chim bồ câu đã nhân rộng ra rất nhiều tỉnh thành nước ta. Không ít hộ nông dân đã xây dựng được thương hiệu uy tín. Trong số đó phải kể đến tấm gương làm giàu  tiêu biểu như:
Trang trại bồ câu Sáng tạo do anh Vũ Trọng Tạo làm chủ tại thôn Trại Tón - Việt Ngọc - Tân Yên - Bắc Giang. Sau hơn hai năm xây dựng và phát triển, trang trại của anh đã cung cấp chim bồ câu giống, chim thịt, gà giống, gà thịt cho rất nhiều các dự án, trang trại, các hộ gia đình, các nhà hàng, khách sạn trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận. Anh Tạo đã trở thành gương nông dân làm giàu điển hình của tỉnh Bắc Giang.
Trang trại nuôi chim bồ câu Ngọc Điền của chàng thanh niên trẻ Nguyễn Ngọc Thức (28 tuổi), số nhà 24, tỉnh lộ 8 ấp 3 xã Tân Thạnh Tây, Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.  Hiện nay trung bình mỗi tháng trang trại của anh cung cấp cho thị trường khoảng 600 – 700 cặp chim với giá bán khoảng 110.000 đồng/cặp. Ngoài ra, anh còn làm đầu mối thu mua bồ câu của các hộ xung quanh để cung ứng đầy đủ cho khách hàng. Đây là những cơ sở mà anh cung cấp giống, hướng dẫn kỹ thuật. Với các đầu mối này cộng với số chim trong trại, hàng tháng anh cung ứng cho khách hàng khoảng 1.500 cặp chim. Với 1.000 cặp chim bố mẹ hiện nay hàng tháng sau khi trừ hết chi phí anh Thức thu về hơn 50 triệu đồng/tháng
Trên đây là một số mô hình nuôi chim bồ câu khá thành công. Hy vọng bài viết có thể đem lại cho người đọc những cái nhìn mới mẻ và hướng làm giàu khả quan từ hình thức kinh doanh này.
Cách đây hơn 10 năm, khi còn là sinh viên, do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, anh đã xin theo các thầy cô ở bên khoa thủy sản tham gia đề tài thử nghiệm sinh sản ếch Thái Lan với mục đích để có tiền trả học phí và ăn học. Hồi mới đầu, nghề sinh sản ếch Thái Lan ăn nên làm ra. Nhưng chỉ được một hai năm, nhiều người cho sinh sản, con giống không đảm bảo, người chăn nuôi quay lưng với ếch giống, ếch thịt sản xuất ra không bán được.
Năm 2003, đang loay hoay chưa biết nuôi con gì để giải quyết số ếch tồn đọng, tình cờ một hôm anh đi qua tỉnh Bình Dương, có một người dân gạ bán cho 2 cặp rắn ráo với giá 100 ngàn đồng. Họ nói nếu không mua thì sẽ mang về làm thịt để ngâm rượu. Thấy tiếc, anh quyết định mua về nuôi thử.
Hàng ngày, anh bắt ếch con cho rắn ăn. Nhờ chăm sóc tốt, rắn lớn nhanh, sau 6 tháng rắn mẹ bắt đầu đẻ trứng. Lần đầu do thiếu kinh nghiệm, tỷ lệ trứng nở chưa cao. Vừa học vừa làm, anh lặn lội ra miền Bắc học hỏi kinh nghiệm từ những người nuôi trước, nhất là các hộ ở xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ban đầu, anh bỏ tiền mua 200 con bố mẹ. Đến nay, sau mấy năm gầy dựng, anh đã có 3.600 con bố mẹ, giá mỗi con 2,5 triệu. Từ rắn con đến rắn trưởng thành là 1 năm, 1 con nặng 1,5 - 2 kg giá trên 1 triệu/kg. Thức ăn chính là cóc, nhái, chuột, gà con, vịt con.
Thầy giáo Đoàn Kim Sơn là chủ trang trại ĐVHD có tiếng ở phía Nam
Theo anh, do thức ăn chính của rắn ráo trâu là ếch, nên cần kết hợp nuôi ếch với mục đích là tận dụng số ếch loại từ 150 g trở xuống (ếch còi, ếch đẹt), thị trường không tiêu thụ để làm thức ăn cho rắn. Mỗi ngày, 3.600 con rắn ráo trâu bố mẹ ăn 220 - 230 kg ếch loại thải từ trại ra. Nói về hiệu quả kinh tế của con rắn ráo, ông Quách Kha (Trảng Bàng, Tây Ninh) cho biết, ông mua từ trại Sơn Ca 50 kg giống rắn ráo (500 g/con) giá 900 ngàn/kg (450 ngàn/con) từ tháng 1/2012 để nuôi thịt. Tháng 9 vừa qua, ông xuất mỗi con nặng 1,6 - 1,8 kg, bán giá 1.050.000 đ/kg, thu về 165 triệu, sau khi trừ chi phí lãi được 70 triệu. “Hiện nay tôi tiếp tục đăng ký giống với anh Sơn để thả đợt 2 vào cuối năm nay”.
Năm 2004, sau khi tốt nghiệp đại học, anh được giữ lại giảng dạy tại trường. Lương giáo viên thu nhập 1 tháng trên 4 triệu đồng, không dư giả gì. Năm 2006, anh thành lập trang trại Sơn Ca 1 tại xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang để lấy nghề “tay trái” nuôi “tay phải”. Tại đây, anh trở lại cho sinh sản ếch Thái Lan cùng cho sinh sản rắn ri voi, ráo trâu, sau đó là kỳ đà và lươn để cung cấp con giống cho bà con nông dân khu vực ĐBSCL nuôi. Sau đó tổ chức thu mua lại con thương phẩm để tiêu thụ nội địa và bán sang thị trường Trung Quốc.
Năm 2007 anh tiếp tục đầu tư mở rộng thêm trang trại Sơn Ca 2 tại xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, TP.HCM rộng hơn 1 ha cũng với các loại động vật hoang dã nói trên, nhưng lần này anh còn bổ sung thêm con chồn hương.
Anh kể, ban đầu mua 9 con gồm 2 đực, 5 cái, giá 1 con là 3 triệu, sau đó về hao hụt còn lại 7 con. Lúc đó chưa có kinh nghiệm đưa về nuôi tập thể nên không hiệu quả do khi sinh sản con này cắn con của con kia đẻ ra. Sau đó anh tách ra từng cặp nhốt chuồng riêng, lúc con cái mang bầu thì tách chuồng. Nuôi theo cách này hiệu quả thật sự. Tuy nhiên, chuồng trại phải vệ sinh sạch sẽ, bởi nếu không con mẹ sẽ cắn chết con. Sau 1 năm rưỡi con cái đẻ từ 3 - 7 con. Hiện nay anh đã phát triển được 80 cặp. Giá 1 cặp bố mẹ là 14 - 15 triệu; chồn con 7 triệu/cặp, còn bán thịt là 1,4 - 1,6 triệu/kg.

“Vốn là thầy giáo nên anh Sơn kinh doanh không chạy theo lợi nhuận như nhiều DN làm ăn chụp giựt khác. Ngoài việc bán giống, anh còn mở nhiều lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật nuôi và bao tiêu sản phẩm cho nông dân trong và ngoài địa phương đảm bảo lợi ích của cả người mua và người bán” (ông Nguyễn Sỹ Phước, Phó CT Hội Nông dân huyện Hóc Môn).
Hai năm nay, anh còn thử nghiệm nuôi lươn không bùn và bước đầu thành công. Thông thường lươn sống trong đất, bùn nên mới đầu trong môi trường không thuận lợi, tỷ lệ lươn hao hụt chết cao lên đến 30 - 40%. Trong quá trình nuôi, anh rút kinh nghiệm, nay tỉ lệ hao hụt xuống còn 5%. Hiện nay, mỗi tháng trại của anh xuất khoảng 1 - 1,5 tấn giống lươn 4 tháng tuổi, người nuôi mang về “nuôi dặm” thêm 5 - 6 tháng là xuất bán, giá 145 - 185 ngàn/kg khi mỗi con đạt trọng lượng từ 200 g trở lên.
Ông Hồ Hùng (xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn) cho biết, ông mua 100 kg lươn giống giá 180 ngàn/kg tổng cộng 18 triệu. Nuôi trong 5 tháng thì 1 kg giống sẽ cho 10 kg thịt, như vậy 100 kg giống nuôi sẽ được 1 tấn lươn thịt trị giá thấp nhất là 145 triệu đồng. Sau khi trừ tiền khoảng 4,5 tấn thức ăn (cá biển, cá tạp, giá 5.000 đ/kg) hết 22,5 triệu cộng với 18 triệu tiền giống; còn lại 100 triệu đồng là chi phí điện nước, công chăm sóc và lãi. “Nhờ anh Sơn chuyển giao kỹ thuật nên tôi mới biết cách nuôi lươn không bùn. Mặt bằng không đòi hỏi nhiều, chỉ cần 20 m2 là nuôi được. Đợt trước, tôi thả 5.000 con, lãi khoảng 60 triệu, đợt này chuẩn bị thả vào tháng 11 với 10.000 con”.
Nhờ nghề cho sinh sản rắn ráo trâu và các động vật hoang dã (ĐVHD) khác, mỗi năm thầy giáo Đoàn Kim Sơn có thu nhập hàng tỷ đồng, đồng thời giải quyết việc làm thường xuyên cho khoảng 40 lao động địa phương. Các con giống ĐVHD ở đây đều có giấy tờ chứng nhận nguồn gốc rõ ràng nên người nuôi an tâm trong quá trình vận chuyển cũng như tiêu thụ. Thế nên, không ngạc nhiên khi ngày 15/10/2012 mới đây, anh vinh dự đón nhận giải thưởng “Khi tổ quốc cần năm 2012 - Đội, nhóm trưởng thanh niên làm kinh tế giỏi” do Trung ương Hội LHTN Việt Nam trao tặng.

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

TRANG TRẠI NUÔI ĐỘNG VẤT HOANG DÃ ĐÀ NẴNG

-Chăn muôi và tìm kiếm động vật hoang dã. Bảo tốn động vật quý. Kinh tế mới .niềm đam mê mời...đt 0974480518 (Phương)
- Xuất phát từ tình yêu thương động vật, qua thời gian dài nghiên cứu và tìm hiểu cách nuôi dưỡng chăm sóc các loại động vật hoang dã nên tôi đã xây dựng riêng cho mình một trang trại chuyên nuôi các loại động vật như: chim bồ câu pháp, bồ câu kiểng các loại, rắn mối, chim Trĩ, gà kiểng ,kỳ đà, dế, dúi, heo rừng,...nhằm phục vụ nhu cầu cho người dùng,và yêu thích cácloại động vật này.

- Nhu cầu sinh sống là một nhu cầu tất yếu trong cuộc sống, " TRANG TRẠI ĐÀ NẴNG " chuyên cung cấp các loại động vật mới, mong muốn sự hợp tác với những người yêu động vật. Vừa là thú vui, vừa làm kinh tế trên cả nước.

- Liên hệ: đt :093 856 9427 ( Mr: Phương )


RẮN MỐI THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên cung cấp sỉ lẻ rắn mối tại thị trấn Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.

Kỹ thuật nuôi rắn mối

Nuôi rắn mối được xem là mô hình “nuôi hàng độc” hiếm có. Loài bò sát vốn thích sống hoang dã này không ai nghĩ sẽ tìm được kỹ thuật nuôi rắn mối để nuôi chúng
Có thể nói mô hình nuôi rắn mối và gà đông tảo của gia đình là một mô hình đáng để bà con học hỏi.
Rắn mối là loài bò sát, phân bố nhiều ở các nước nhiệt đới như Việt Nam, Lào, Campuchia...Chúng có đầu hình tam giác, có 4 chân, mỗi chân có 5 ngón, có vảy trên mình, vảy phía trên màu nâu và phía dưới màu trắng ngả vàng. Hai bên hông có hai sọc đỏ như lửa chạy dọc xuống tới hai chân sau. Qua tìm hiểu bước đầu, có thể phân ra hai loại là rắn mối lưng trơn và rắn mối lưng sọc.

Kỹ thuật làm chuồng nuôi rắn mối

Kỹ thuật làm chuồng nuôi rắn mối khá đơn giản, có thể tận dụng các xô, chậu để nuôi. Tuy nhiên tốt nhất nên xây chuồng kiên cố để nuôi với số lượng lớn. Ta có thể xây gạch xung quanh chuồng, cao từ 0.8m - 1m trên cùng nên óp gạch men để rắn không bò ra ngoài. Hoặc ta có thể dùng tôn trơn vây xung quanh chuồng. Chuồng nuôi rắn mối có diện tích : 2 m x 5m hoặc 3m x 10 m. Mõi mét vuông ta có thể thả nuôi khoản 100 con rắn mối đẻ.
Lưu ý: Rắn Mối rất cần ánh nắng vì vậy có thể xây chuồng dạng hở (nửa mát, nửa nắng) để có bãi tắm nắng cho chúng, vừa làm nơi có thể chong đèn (dây tóc) để chúng sưởi ấm, vừa dẫn dụ côn trùng làm thức ăn cho chúng. Nên dùng gạch ống làm chỗ trú ẩn là tốt nhất, nếu làm rơm hay lá chuối khô sau một thời gian sẽ bị dính phân, môi trường nuôi dễ ô nhiễm. Cần chú ý xây dựng chuồng thoáng mát và có bãi tắm nắng cho chúng. Thức ăn cho chúng là các loại côn trùng như mối, dế, gián, cào cào, sâu hoặc có thể cho ăn ếch, nhái con, cá băm nhỏ... Món khoái khẩu của rắn mối là con mối. Lượng thức ăn cho 1.000 con trong ngày là khoảng 0,5 kg. Trong chuồng bố trí hai cái dĩa làm máng ăn và máng uống. Cho ăn 3 lần trong một ngày, tránh cho chúng ăn thức ăn hôi, thiu, mốc.... nên thay nước sạch thường xuyên để tránh phân rơi vào máng uống.

Cách chọn rắn mối giống

Rắn mối giống nên chọn những con khỏe mạnh không dị tật, dị hình, không cụt đuôi, bốn chân không khuyết tật và đều cỡ, chọn những con khỏe, di chuyển nhanh và không dị tật.
Rắn đực và rắn cái rất dễ phân biệt, với rắn lưng sọc thì con đực có đầu to, chân khỏe đuôi dài, có hai sọc đỏ chạy dọc hai bên hông, thân hình thon và khỏe mạnh. Rắn cái đầu nhỏ, đuôi nhỏ, chân nhỏ, di chuyển chậm chạp, có sọc đỏ chạy hai bên hông nhưng ngắn hơn rắn đực và có những đốm trắng hai bên hong chạy dọc lưng.
Con giống khỏe mạnh
Với rắn lưng trơn thì con đực có đầu to, chân khỏe, đuôi dài và khỏe, có hai sọc đỏ chạy dọc hai bên hông, thân hình thon và khỏe mạnh. Con cái có 7 sọc đen trên lưng, đầu nhỏ, đuôi nhỏ, chân nhỏ di chuyển chậm chạp, có sọc đỏ chạy hai bên hông nhưng ngắn hơn con đực và có những đốm trắng hai bên hông chạy dọc lưng.

Kỹ thuật nuôi rắn mối sinh sản

Trong tự nhiên chúng sinh sản và mùa mưa, mõi năm đẻ từ 2-3 lứa, mõi lứa từ 10 - 15 con. Rắn mẹ không đẻ trứng mà đẻ ra 1 cái bọc sau đó con con tự cắn bọc chui ra ngoài. Rắn con có chiều dài trung bình từ 3 cm - 5 cm và chạy rất nhanh.
Rắn mẹ mang bầu
Khi thấy rắn mẹ mang bầu bụng lớn và đi lại khó khăn ta nên bắt rắn qua chuồng riêng để rắn đẻ (Nếu không rắn đực sẻ ăn con). Trong chuồng ta nên bỏ gạch ống và lá chuối để rắn mẹ và rắn con trú ẩn. Sau khi thấy rắn mẹ bụng nhỏ trỏ lại tức là rắn đã đẻ xong ta bắt rắn mẹ bỏ qua lại chuồng nuôi chung để rắn tiếp tục giao phối.

Kỹ thuật nuôi rắn mối con

Ta nên bắt rắn con cho vào 1 cái thâu nhựa. Bên trong ta cho vào 1 cục gạch ống + một ít rơm + một dĩa nước và thả rắn con vào trong. Thức ăn cho chúng cũng như con mẹ nhưng ta băm nhỏ hơn. Nuôi trong thâu khoảng từ 7 - 10 là có thể thả ra ngoài nuôi chung
Điện thoại liên hệ: 097 448 0518 ( Mr: Phương )

Chim Trĩ Thừa Thiên Huế

Một ngày mới.
Chuyên cung cấp sỉ lẻ chim trĩ tại Điền Lộc Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
  • Kỹ thuật nuôi chim Trĩ Đỏ Khoang Cổ

Kỹ thuật nuôi chim Trĩ Đỏ Khoang Cổ


I. Tổng quan về chim Trĩ Đỏ Khoang Cổ
1.1 Nguồn gốc, phân bố và đặc điểm sinh học
– Chim Trĩ đỏ khoang cổ là loài chim thuộc Họ Trĩ (Phasianidae) nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Chúng chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam (Lạng Sơn, Quảng Ninh …), rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh Thượng (Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa thiên Huế) và phía Đông Nam Trung Quốc. Chim Trĩ khoang cổ tên khoa học là Phasianus colchicus Linnaeus. Khi trưởng thành con đực có màu lông sáng, đầu và cổ con đực có màu xanh nhạt với 1 khoang trắng rõ rệt xung quanh vùng cổ, giữa ngực là 1 màu đỏ tía đậm, các vùng bên cạnh có màu sáng hơn, hai bên sườn có màu vàng nhạt (vàng tái) với các vết đen trên diện rộng, lông đuôi có màu vàng oliu (nâu vàng nhạt) với các sọc ngang rộng màu đen. Trong khi đó con cái có nhiều vết đốm rõ rệt, các lông cổ màu nâu và đen kẻ sọc quanh chỏm đầu, với các đường viền có màu hạt dẻ, phần lông phía sau lưng và ngực có màu lốm đốm, phần giữa có màu nâu đen, vùng bụng có màu nâu nhạt. Các lông đuôi rất rõ rệt với các đường gợn sóng dày khít có màu vàng sẫm và đen. Chim trĩ non rất khó phân biệt trống mái, đến hơn 3 tháng mới phân biệt được dựa vào màu lông.
– Chim Trĩ có sức sống, khả năng thích ứng và kháng cự mạnh mẽ đối với bệnh tật, sống được ở nhiệt độ từ – 32 đến 46 độ C.
– Trĩ đỏ lớn rất nhanh và có khả năng đề kháng rất cao nên ít mắc bệnh. Ngoài 8 tháng là trĩ mái bắt đầu đẻ trứng, mỗi con mái trưởng thành trong một năm có khả năng đẻ 90 – 100 quả trứng. Nuôi nhốt trong điều kiện thiếu các phương tiện ấp trứng nhân tạo thì khó thành công vì chim trĩ đỏ không còn nhớ bản năng ấp trứng. Những hộ nuôi ít thì thường cho gà ấp hộ, tỉ lệ ấp nở thành công tới hơn 75%. Nếu được ăn đầy đủ, thêm côn trùng, mỗi con trĩ đỏ mái có thể đẻ đến hai trứng mỗi ngày. Nếu dùng máy ấp nhân tạo với các thông số độ ẩm, nhiệt độ phù hợp thì có thể cho tỉ lệ nở 80 – 85 %. Tại miền Bắc, chim Trĩ sinh sản kéo dài từ tháng 02 đến tháng 09 trong năm.
– Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nghiên cứu tổng kết tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP như sau:
+ Sản lượng trứng/mái/mùa sinh sản: 90 – 100 quả.
+ Tỷ lệ trứng giống: 92 – 95%.
+ Tỷ lệ phôi: 93 – 95%.
+ Tỷ lệ nở/tổng trứng ấp: 75 – 80%.
+ Tỷ lệ nuôi sống: 85%.
+ Thức ăn bình quân giai đoạn đẻ: 60g – 70g/con/ngày.
+ Chim Trĩ đỏ khoang cổ thương phẩm (nuôi 16 tuần tuổi).
+ Tỷ lệ nuôi sống: 80 – 85%.
+ Khối lượng cơ thể: 1100 – 1300 g/con.
+ Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể (g): 4800 – 5000 g.
1.2 Giá trị kinh tế
Giá trị kinh tế của chim Trĩ chắc chắn gấp hàng chục lần gà. Trứng trĩ rất thơm ngon, bổ dưỡng. Hiện tại trứng trĩ cũng đang được thị trường rất ưa chuộng nên việc nuôi trĩ lấy trứng đang rất tiềm năng. Và điều quan trọng hơn tất cả là bảo tồn được nguồn gien cùng với việc đưa giống chim quý hiếm này vào phục vụ du lịch thậm chí thương phẩm hóa. Nuôi loài này với mục đích trước tiên là bảo tồn và tiến tới thương mại hóa thì phải nói là siêu lợi nhuận. Giá mỗi con 2,5 – 3 tháng tuổi là 400.000 – 500.000 đồng, loại 6 tháng trở lên là 1.000.000 đồng, loại đang thời kỳ đẻ trứng là 1.500.000 đồng, trứng trĩ hiện đang bán ra thị trường với giá 50 nghìn đồng/quả. Nếu so với nuôi gà thì bà con có thể thấy giá trị của con trĩ lớn thế nào trong khi nuôi trĩ chẳng khác nuôi gà là bao, chuồng trại có thể tận dụng các khu chuồng đã từng nuôi gà, nuôi lợn.
1.3 Giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh
Thịt trĩ có hàm lượng protein cao lên tới 30% cao hơn hẳn hàm lượng protein trong thịt bò, thịt gà, thịt lợn, thịt cừu, giàu các vitamin A, C, B1, B2, B3, B6, B12, E, hàm lượng chất béo bão hòa và cholesterol thấp, chứa các amino axit thiết yếu cơ thể con người, trong đó có nhiều amino axit không tổng hợp được trong cơ thể, và giàu nguyên tố vi lượng thiết yếu như germanium (Ge), selenium (Se), kẽm (Zn), sắt (Fe), canxi (Ca). Trong y học cổ truyền, thịt chim trĩ được sử dụng như một vị thuốc, tính vị ngọt, bình. Công hiệu: bổ trung ích khí, tư bổ gan thận, chữa tiêu chảy, chủ trị tỳ vị hư yếu, ít ăn,… Thịt trĩ còn được dùng làm bài thuốc cho phụ nữ sau khi sinh: băng huyết, thiếu máu, suy nhược sau sinh, sa tử cung, và dạ dày, dùng làm thức ăn tăng cường sức khỏe cho người già, hồi phục sức khỏe sau bệnh, dùng cho trẻ em suy dinh dưỡng. Thường xuyên ăn thịt chim trĩ có tác dụng chống suy nhược thần kinh, giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch vành, bệnh tim phổi và có thể điều trị ngăn ngừa bệnh ung thư (theo Đại học Y của Trung Quốc).
1.4 Giá trị cảnh và Quà biếu
Việc nuôi chim cảnh đối với loài trĩ này hiện đang là một nhu cầu chắc chắn không nhỏ. Do tính chất quý hiếm và nhờ “ngoại hình” rất đẹp của chúng, nên hiện tại một phần nhỏ chim trĩ được nuôi làm cảnh trong các khu biệt thự cao cấp, các khách sạn, dùng làm trưng bày ở các triển lãm, hội nghị, còn phần lớn chim trĩ cung cấp cho các khu bảo tồn động vật hoang dã, vườn Quốc gia, khu du lịch sinh thái. Chim trĩ có thể được dùng làm quà tặng, quà biếu cao cấp, sang trọng, lịch sự vào các dịp lễ Tết, lễ hội, khánh thành, liên hoan,…Dưới thời các triều vua Trung Quốc, chim Trĩ dùng làm lễ vật cống của các nước nhỏ tới các nước lớn. Ở Mỹ, chim Trĩ được dùng làm một trong các món ăn sang trọng để thếp đãi các quan khách trong Nhà trắng.
II. Chọn Giống
– Dựa vào đặc điểm cơ thể để phân biệt chim trống , mái:
+ Ở cùng lứa tuổi Chim trĩ trống thường có ngoại hình lớn hơn chim trĩ mái. Lúc còn nhỏ rất khó phân biệt chủ yếu dựa vào cảm quan nghề nghiệp và một số biểu hiện nhỏ về sự khác biệt trong tập tính sinh hoạt và ngoại hình chim. Có thể phân biệt bằng mặt thường qua việc so sánh kích thước cở thể, chiều cao chân, hoặc lỗ huyệt.
+ Khi bước vào thời kỳ 2 – 3 tháng tuổi chim trống có biểu hiện chuyển dần màu lông từ lâu nhạt sang màu đỏ pha, lúc này trọng lượng và chiều dài cơ thể lớn hơn chim mái rõ rệt. Trên cổ chim trống hình thành tuyến lông màu đồng phía dưới là màu xanh lá cây hoặc màu tím sáng. Kế tiếp xuất hiện 1 vòng lông cổ màu trắng (thường gọi là Trĩ Đỏ Khoang Cổ Trắng) Lông đuôi có màu đỏ và màu hạt dẻ pha trộn với các vệt đen hoặc trắng nhạt. Trên má hình thành hai mào đỏ và hai chỏm lông sừng màu xanh thẫm. Chim Trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5 – 2kg, lông đuôi có thể đạt 0,4 – 0,6m, tùy theo chế độ chăm sóc và mật độ nuôi thả
+ Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống. Sau khi thay lông ở thời kỳ 3 – 5 tháng tuổi chim mái sẽ ổn định ở bộ lông màu tối có những đốm đen, pha lẫn màu hạt dẻ. Chim mái có đuôi ngắn hơn chim trống, trọng lượng bình quân của một chim mái trưởng thành khoảng 0,7 – 1,3kg/con.
– Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quàn lý và giao phối với rất nhiều chim mái. Với bản tính rất hăng về dục vọng 1 chim trĩ trống có thể đạp liên hồi nhiều chim trĩ mái trong một thời gian ngắn. Qua quan sát và ghi nhận lại có những thời điểm chỉ trong thời gian chưa đầy 5 phút một chim trĩ đực đã đạp liên hồi tới 4 lần/3 chim mái. Với tốc độ và sự uy hiếp rất mạnh đối phương nên việc nuôi ghép 1 trĩ đực và 1 chim mái để sinh sản là điều tối kỵ. Chim mái sẽ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn, bị dập trứng, hoặc lồi Zoong (tuột hậu môn) đôi khi có vấn đề về tâm, sinh lý ảnh hưởng nghiêm trong đến thế hệ chim mới sinh ra. Tuy nhiên nuôi với tỷ lệ mái quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất lượng phôi trứng. Qua nghiên cứu thực nghiệm Vườn Chim Việt đã ổn định đàn chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống + 3 mái.
– Việc nuôi chim trĩ đỏ ở thời kỳ còn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất định lien quan đến chế độ dinh dưỡng, điều kiện môi trường đặc biệt là khâu vận chuyển. Vì vậy những người mới nuôi hoặc chưa có kinh nghiệm nuôi trĩ đỏ nên hạn chế việc đầu tư mua con giống size nhỏ. Người mua nên chọn mua những cá thể chim ở thời kỳ 3 – 5 tháng tuổi hoặc chim hậu bị.
– Trọn chim trống có ngoại hình to, cao, đuôi dài, lông mượt, trường chim, dáng khỏe mạnh, lanh lợi. Nếu ở thời kỳ trưởng thành chim trống luôn trong tư thế nghiêng mình sung trận.
– Chim mái : bầu chim, nở hậu, không dị hình, dị tật. Nên mua chim ở những cơ sở gây nuôi uy tín và có nhiều năm kinh nghiệm để lựa được những cá thể chim khỏe mạnh, không bị đồng huyết, cũng như được tư vẫn về kỹ thuật gây nuôi.
* Một điểm cần lưu ý: hiện nay chim trĩ đỏ vẫn nằm trong danh mục động vật hoang dã nên việc gây nuôi vẫn phải có khai báo với chi cục kiểm lâm sở tại. Phần lớn các cở sở nhân giống tự phát trên cả nước hiện vẫn chưa được đăng ký gây nuôi, Đây cũng là một vấn đề khó khăn trong công tác quản lý đối với các cơ quan hữu quan cũng như việc vận chuyển, buôn bán cho các hộ dân. Bà con nên tìm đến các cơ sở gây nuôi được cấp phép để mua con giống với nguồn gốc hợp lệ. Tránh mua trôi lổi trên thị trường sẽ gặp phải không ít khó khăn trong khâu vận chuyển cũng như công tác nhân giống và tiêu thụ sản phẩm về sau.
III. Kỹ thuật nuôi chim trĩ đỏ khoang cổ
3.1 Yêu cầu chung về chuồng trại
– Vị trí chuồng nuôi phải chọn nơi cao ráo, thoáng mát, cách xa các trại nuôi gia súc, gia cầm khác nhằm hạn chế tối thiểu mức rủi ro do lây nhiễm chồng chéo.
– Chuồng trại phải đảm bảo giữ ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Nền chuồng phải bằng phẳng, tiện cho công tác dọn vệ sinh, rải chất độn chuồng bằng phôi bào hoặc trấu có thể trộn với cát được phơi khô đã được phun khử trùng. Mặt khác phải đảm bảo thực hiện được biện pháp an toàn sinh học.
* Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2 – 3 lần/tuần, định kỳ phun thuốc khủ trùng. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều, chết.
– Trong thời gian qua trên các diễn đàn mạng và truyền hình có giới thiệu 1 số mô hình nuôi chim trĩ đạt hiệu quả cao, tuy nhiên cách thiết kế chuồng trại thường theo phương thức chia nhiều ô với kích thước rất nhỏ, môi ô chỉ nuôi từ 1 – 4 cá thể ( ghép bộ ). Cách làm này tuy hạn chế được việc chim đánh, mổ nhau nhau nhưng lại tốn kém rất nhiều trong khâu thiết kế chuồng trại, máng ăn cũng như công chăm sóc. Mô hình ghép cặp chỉ thích nghi với điều kiện nuôi kiểng, hoặc diện tích đất nhỏ. Tuỳ mục đích, quy mô sản xuất bà con có thể lựa chọn cách thiết kế chuồng trại sao cho phù hợp nhất với điều kiện sẵn có mà vẫn đảm bảo được yếu tố kỹ thuật trong việc quản lý và chăm sóc chim
3.2 Chuẩn bị dụng cụ và chuồng nuôi
– Trước khi đưa chim vào nuôi dù quy mô lớn hay nhỏ cần phải chuẩn bị mọi điều kiện vật chất kỹ thuật như: lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, máng uống, chất độn chuồng, tiêu độc khử trùng và chọn người nuôi. Mật độ nuôi úm trong chuồng nhỏ:
+ Chim 0 – 30 ngày tuổi: 40 – 15 con/m2.
+ 30 – 60 ngày tuổi: 12 – 6 con/m2.
+ 60 – 90 ngày tuổi : 4 – 2 con/m2.
– Sau 90 ngày tuổi có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con /m2. Lồng úm nuôi giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi.
– Lồng úm và dụng cụ chăn nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng trước khi đưa chim vào nuôi 15 – 20 ngày và phải được xử lý theo đúng quy định về vệ sinh phòng dịch, tường, nền được quét nước vôi đặc nồng độ 40%. Sau đó để khô phun tiêu độc bằng xút 2% (NaOH) với liều 1 lít/m2 hoặc bằng các loại thuốc sát trùng khác như Foocmol 3% phun 2 – 3 lần. Trước khi thả chim Trĩ vào nuôi 1 – 2 ngày phun tẩy uế lại bằng Formalin 3% và đóng kín cửa. Sau khi phun 5h mở cửa cho thông thoáng bay hết mùi thuốc sát trùng rồi mới thả chim. Nếu như chồng trại xây mới thì có thể chỉ dùng thuốc sát trùng Virkon®S của hãng Bayer: pha 100g với 10 lit nước, phun 300ml/m2, phun toàn bộ trại bao gồm nền, tường, bồn ăn uống, không khí, giày ủng. Hầu hết các kiểu úm gia cầm đều phù hợp cho việc úm chim Trĩ.
– Trong thời gian úm gột, để tập trung nguồn nhiệt tránh gió lùa sử dụng lồng úm với chiều cao 40 – 50 cm; chiều dài 1,0 – 1,2 m; chiều rộng 0,7 – 0,9 m. Xung quanh được đóng bằng gỗ ép hoặc cót ép, phía trên làm bằng lưới ô nhỏ để tránh chim bay, cửa lồng có thể nằm ở phía trên tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lồng này dùng để úm chim non trong 28 – 30 ngày đầu, mỗi lồng như vậy có thể úm từ 50 – 80 chim.
– Chuồng nuôi giai đoạn 5 – 12 tuần tuổi: Giai đoạn này chim Trĩ được nuôi thả ra nền chuồng bê tông để rải trấu hoặc phôi bào với độ dày 5 – 8 cm, có khu đổ cát để chim tắm cát. Chim Trĩ được thả ra ngoài nhằm cho chim vận động, nhưng phải có lưới quây để cho chim khỏi bay đi. Bên ngoài lớp lưới của sân chơi có thể phủ lên những cành cây giúp cho môi trường sống giống với các điều kiện tự nhiên. Giai đoạn này một chim cần 0,5 m2 tổng diện tích sàn bên trong chuồng nuôi, và 2 m2 diện tích nền bên ngoài được dùng cho việc vận động. Sau quá trình ấp, chim trĩ có thể được nuôi khép kín, nhưng cần thiết phải có nơi cư trú đầy đủ. Sân chơi được rào kín bằng lưới để ngăn chim thoát ra ngoài. Để ngặn chặn việc bay mất, kẹp lông cánh khi chúng 4 tuần tuổi hoặc cắt lông cánh ngay ban đầu. Chim trĩ rất dễ kích thích và bay rất tốt, vì vậy chúng nên được nhốt trong chuồng nuôi hoặc các bãi rào được bao bọc cẩn thận. Nếu chúng có thể thoát ra ngoài sau khi sợ hãi, chúng có thể bay rất xa và mất.
– Giai đoạn sau 12 tuần tuổi:
+ Ở giai đoạn này có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con/m2. Nên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim. Nếu tốn kém trong việc chia chuồng ra nhiều ô nhỏ thì có thể chọn phương án nuôi tập trung (quần thể).
+ Tường vây có thể xây hoặc dùng lưới B40, lưới mắt cáo. Trên lóc sử dụng các loại tấm lợp pro ximăng hoặc vật liệu rẻ tiền sẵn có tại địa phương, miễn sao đảm bảo chim không thoát ra ngoài.
+ Nền chuồng được dải một phần hoặc toàn bộ cát, sử dụng loại cát vàng, để chim tắm cát và làm ổ đẻ. Phần còn lại có thể sự dụng bằng nền betông, hoặc trồng cỏ trong khoảng sân chơi.
+ Mái che có thể lập toàn phần hoặc bán phần miễn sao đảm bảo thoáng về mùa hè, ấm về mùa đông. Với các địa phương khu vực phía bắc thường có rét đậm rét hại vào mùa đông, hoặc sương muối, nên che chắn cẩn thận toàn bộ chuồng nuôi bằng vải bạt và thắp điện sưởi để tránh rét cho chim. Với các tỉnh khu vực phía Nam và Tây Nguyên khí hậu nóng ấm quanh năm hạn chế phải che phủ chuồng trại hơn, tuy nhiên nên lưu ý đến các đợt mưa tạt, gió lùa vì đây là những thời điểm chim rễ mắc các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, cầu trùng, tụ huyết trùng, thương hàn,…
* Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2 – 3 lần/tuần. Phun thuốc khử trùng Virkon S định kỳ 1 lần/tuần, tăng cường khi có dịch hoặc khí hậu ẩm ướt. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilon trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.
– Làm chuồng cho chim lớn:
+ Lên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim. Nếu làm chuồng mới để nuôi chim sinh sản có thể thiết kế theo khung cơ bản: Rộng ngang: 3,5 m x dài 6 m x cao 2,5 – 2,8 m .
+ Với diện tích ô chuồng này có thể nuôi được 20 – 25 cá thể chim bố mẹ sinh sản , hoặc 30 – 40 cá thể chim hậu bị.
* Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2 – 3 lần/tuần. Phun thuốc khủ trùng định kỳ, thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều, chết.
3.3 Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng
a) Nuôi chim con (giai đoạn từ 1 – 3 tháng tuổi):
– Chim được nuôi trong lồng nhỏ bằng lưới mắt cáo. Sử dụng bóng điện hoặc đèn sưởi đám bảo nhiệt độ 25 – 27 độ C. Không nuôi chim con tại nơi có gió lùa, mưa tạt. Che đậy cẩn thận để đảm bảo an toàn cho chim khỏi các vật nuôi khác tấn công: Chó, mèo, chuột. Khu vực nuôi thường xuyên được khử trùng định kỳ tối thiểu 15 – 20 ngày/lần.
– Thức ăn: sử dụng loại cám viên dùng cho gà con, sử dụng loại máng ăn, uống tự chế hoặc máng dùng cho gà miễn sao đảm bảo vệ sinh. Nên cho lượng cám và nước vừa đủ, khi chim ăn hết nhấc máng ra vệ sinh và thay nước mới. Tránh để nước lưu lại sang ngày thứ 2. Với chim nhỏ sức đề kháng yếu ta sử dụng loại nước cất hoặc nước đun sôi để nguội cho chim uống.
b) Nuôi chim trưởng thành:
– Chim được nuôi trong lồng lớn sử dụng thức ăn dành cho gia cầm trưởng thành, gia cầm sinh sản ( cám gà đẻ ) kết hợp với thóc. Tỉ lệ fa tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng của chim: có thể dùng tới 60% thóc trong khẩu phần thức ăn. Ngoài ra kết hợp cho ăn thêm các loại rau xanh: rau muống, rau lang, thân cây chuối thái nhỏ… Hạn chế cho các loại thức ăn lạ: tôm, cua, cá có thể dẫn đến tình trạng chim bị tiêu chảy.
– Trong quá trình nuôi đàn thường sảy ra hiện tượng chim cắn, mổ nhau: Vị trí mổ thường tập chung vào mắt, đỉnh đầu hoặc lỗ huyệt. Để hạn chế việc này ta có thể sử dụng 1 số phương thức sau:
+ Tách riêng cá thể chim bị đánh, hoặc chim đánh ra khỏi chuồng nuôi từ 3 – 5 ngày. Sau đó thả lại bình thường.
+ Cho ăn bổ sung thêm 1 số khoáng chất: Ca, Zn. Có thể sử dụng loại thuốc trống cắn, mổ bán tại các tiệm thú y để pha vào thức ăn cho chim.
+ Cắt hoặc mài bớt phần mỏ dưới của chim (đây là liệu pháp bắt buộc trong quy trình nuôi công nghiệp theo quy mô lớn) Việc cắt hoặc mài mỏ dưới của chim không làm ảnh hưởng đến ngoại hình (vì phần mỏ dưới bị che khuất). Không ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của chim trống. Vì thực chất chim trĩ đạp mái thời gian diễn ra rất nhanh (từ 15 – 30 giây) không nhất thiết cần sự hỗ trợ của bộ mỏ, nếu có chỉ cần mỏ trên là đủ. Ngoài ra việc cắt, mài mỏ còn loại bỏ được nguyên nhân ăn trứng của chim. Đây là lý do một số người đã nuôi chim trĩ trong thời gian dài vẫn không thấy chim sinh sản. Tuy được xem là phương pháp kỹ thuật tiêu biểu và sử dụng rộng dãi trên thế giới song với người nuôi chim trĩ của Việt Nam lại quan niệm chim cắt mỏ là chim Trĩ của Trung Quốc. Thực tế trong danh mục các loại chim không có khái niệm chim trĩ đỏ TQ, chim Trĩ Thái Lan hay chim Trĩ Việt Nam. Mà đó chỉ là vùng phân bố của chim trĩ. Vì vậy chỉ có 1 loại trĩ đỏ khoang cổ duy nhất như hình trên. Khi đưa vào môi trường nuôi nhân tạo thì ngoại hình, trọng lượng của chim do người nuôi quyết định: Ví dụ: Nếu sử dụng 100 % cám tổng hợp làm khẩu phần ăn, chim trĩ sẽ rất nhanh lớn và có thể đạt trọng lượng 2kg/con .Tuy nhiên chất lượng thịt thương phẩm sẽ giảm vì mất dần tính hoang dã của chim, đồng thời sức đề kháng của chim cũng kém đi. Với chim mái có thể dẫn đến hiện tượng béo lú mà không sinh sản đựoc.
– Hiện nay trên 1 số diễn đàn mạng có đưa thông tin để phân biệt chim trĩ trung quốc và chim trĩ Việt Nam. Đó là phân biệt dựa vào ngoại hình và mỏ. Thực chất khi chim bố mẹ có cắt mỏ hoặc gẫy mỏ thì thế hệ chim con đẻ ra không hề bị ảnh hưởng, Vì vậy phần lớn khách hàng của Vườn Chim Việt sau khi nhân giống sang thế hệ thứ 2 đã giữ nguyên lại mỏ chim con. Cách làm này chỉ thích ứng cho việc nuôi kiểng với số lượng nhỏ ,nuôi ghép thành từng bộ, không thể nuôi đàn. Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm và thiếu cơ sở khoa học. Và cũng là 1 trong những nguyên nhân khiến nhiều bà con phải bỏ tiền ra mua chim trĩ với giá rất cao vì nghe quảng cáo là chim trĩ Việt.
– Để khảng định được nguồn gốc chim cũng như chất lượng con giống bà con nên đến trực tiếp các trang trại gây nuôi có uy tín, được cấp phép của chi cục kiểm lâm sở tại. Tránh mua tại các tiệm chim hoặc thương lái vì chim mới bị nhập về thường bị nhốt trong môi trường chật, không được chăm sóc có thể mang sẵn mầm bệnh.
+ Máng ăn:
. Giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi: 4 tuần đầu có thể dùng máng nhựa, mẹt tre, máng tôn hình chữ nhật hoặc máng tròn, tuỳ theo kích thước của lồng úm.
. Giai đoạn 5 – 9 tuần tuổi: từ tuần tuổi thứ 5 trở đi dùng máng ăn có kích thước to hơn (có thể là máng dài hoặc máng tròn). Máng dài có thiết diện hình thang, đáy nhỏ từ 5 – 8 cm, miệng rộng 7 – 13 cm, chiều dài của máng 1 – 1,5 mét; cao 4 – 8 cm có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn.
. Máng tròn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn làm theo kiểu máng P50 Hunggari nâng dần độ cao của máng theo tuổi của chim.
+ Máng uống: Có nhiều loại song tuỳ thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho phù hợp và kinh tế. Thông thường dùng máng tròn (gallon) gồm phần đáy và thân nắp vào nhau làm bằng nhựa, thể tích máng uống tuỳ theo tuổi: Chim non dùng gallon 1 – 2 lít, chim dò hậu bị và sinh sản dùng gallon 4 – 8 lít. Máng uống dài có độ dài tương đương máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn.
+ Chụp sưởi: Chim non sau khi nở ra chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt do đó phải có hệ thống chụp sưởi để cung cấp nhiệt độ cho chim đến khi chúng có khả năng điều tiết được thân nhiệt phù hợp với nhiệt độ môi trường, có thể dùng dây may so, bóng điện hoặc đèn hồng ngoại tuỳ theo số lượng chim con 01 ngày tuổi mà bố trí hệ thống sưởi cho hợp lý và hiệu quả kinh tế.
+ Chất độn chuồng: Yêu cầu chất độn chuồng phải có khả năng hút ẩm, có thể dùng phôi bào, trấu, rơm rạ băm nhỏ. Lưu ý chất độn phải được phơi khô không có mùi mốc, phun sát trùng bằng Foocmol 2% hoặc Virkon®S. Cần có cát, sỏi bổ sung trong nền chuồng để có thể tắm hoặc ăn.
3.4 Chọn chim giống
Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, khối lượng 20 – 23g là đạt yêu cầu. Loại ngay những con khô chân, vẹo mỏ, khèo chân, hở rốn, bụng nặng, lông bết.
3.5 Nhiệt độ, ẩm độ và thông thoáng
– Hai tuần đầu tiên chim không tự điều chỉnh thân nhiệt một cách hoàn hảo, do đó các bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá dễ phát sinh khi ẩm độ môi trường lên cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của chim. Thời điểm khi chim xuống chuồng nên để nhiệt ở 35 độ C, sau nhiệt độ được giảm dần xuống 30 độ C khi chim được 3 tuần tuổi.
– Từ tuần tuổi thứ 2 cần chú ý đến tốc độ mọc lông ở chim để điều chỉnh nhiệt độ cho thích hợp. Trong quá trình nuôi phải quan sát phản ứng của chim đối với nhiệt độ:
+ Nếu thấy chim tập trung gần nguồn nhiệt, chen lấn chồng đống lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt, chim bị lạnh.
+ Nếu chim tản ra xa nguồn nhiệt, nháo nhác, kêu, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng cần phải điều chỉnh giảm nhiệt độ.
+ Nếu chim tụm lại một phía là bị gió lùa rất nguy hiểm, cần che kín hướng gió thổi.
+ Khi đủ nhiệt, chim vận động ăn uống bình thường, ngủ, nghỉ tản đều lồng úm.
– Chim con cần chiếu sáng 24/24 giờ trong 4 tuần đầu, sau 5 – 9 tuần giảm thời gian chiếu sáng đến 16h, từ tuần thứ 7 – 9 lợi dụng ánh sáng tự nhiên, đảm bảo cường độ ánh sáng 3W/m2 là đủ.
3.6 Nước uống
– Nước là nhu cầu đầu tiên của chim khi mới xuống chuồng. Cần cung cấp nước sạch, tốt nhất là pha thêm 5g đường Glucoz và 1g Vitamin C/lít nước cho những ngày đầu, nước uống cho chim không được lạnh tốt nhất là hơi ấm 18 – 21 độ C trong vài ngày đầu.
– Sử dụng chụp nước tự động bằng nhựa 0,6 – 0,8 lít/50 chim non. Vị trí đặt máng uống phải bố trí cho chim dễ tiếp cận và không bị máng ăn che khuất. Tuân thủ cho chim uống nước trước, sau 2 – 3 giờ mới cho thức ăn.
3.7 Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
– Cũng như chăn nuôi các loài gia cầm, chăn nuôi chim cũng như vậy. Thức ăn của trĩ là cám tổng hợp (loại không có tăng trọng), ngô xay, thóc, đậu tương, rau xanh, cỏ,… Ngoài 2 tháng có thể cho trĩ tập ăn thóc bằng cách trộn 10 – 20 % vào khẩu phần ăn. Ở giai đoạn 5 – 8 tháng có thể trộn đến 50 % thóc vào khẩu phần ăn.
– Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý đòi hỏi phát triển cơ thể ở mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của giống, đạt nhanh đến khối lượng giết mổ càng sớm càng tốt.
Chim Trĩ nuôi lấy thịt được chia ra các giai, đoạn 0 – 4 tuần tuổi; 5 – 9 tuần tuổi và 10 → giết mổ (10 – 16 tuần).
– Sau khi chim được uống nước 2 – 3 giờ thì mới cho ăn, thường cho ăn theo bữa. Thức ăn được trải đều vào nhiều khay tuỳ thuộc quy mô đàn để tránh sự tranh giành thức ăn giữa các con trong đàn. Chỉ nên cung cấp lượng thức ăn vừa đủ, một ngày đêm cho ăn 9 – 10 lượt để thức ăn luôn mới thơm, hấp dẫn tính ngon miệng và tránh lãng phí.
* Một số điều cần lưu ý: Thức ăn được phối chế cân đối đảm bảo đủ dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của chim trong từng giai đoạn.
+ Khẩu phần ăn có thể phối chế đa nguyên liệu, sử dụng thức ăn bổ sung động vật, thực vật, Premix khoáng vi lượng và Vitamin.
+ Không sử dụng các nguyên liệu bị mốc, nhiễm độc tố Afratoxin hoặc bột cá mặn (có hàm lượng muối cao).
+ Khẩu phần thức ăn được cân đối đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn nuôi, thức ăn phối chế đa nguyên liệu, sử dụng đạm nguồn gốc động vật, thực vật, Premix Vitamin, khoáng vi lượng,…
+ Dùng đậu tương phải rang chín chim mới tiêu hoá được, nếu chín không đều chim ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hoá (đi ỉa).
3.8 Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở
– Chim trĩ giống bình quân sau khi nuôi đến 8 tháng tuổi có thể đẻ trứng. Thời gian đẻ thường từ đầu tháng 1 âm lịch đến khoảng tháng 4 âm lịch. Sau đó chim trĩ ngừng đẻ khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8 âm lịch thì nghỉ .Bình quân mỗi năm 1 chim mái có thể đẻ từ 68 – 80 trứng. Với các tỉnh phía bắc nước ta nơi có mùa đông lạnh và kéo dài chim thường đẻ muôn hợn, thường mùa đẻ chỉ bắt đầu khi vào mùa xuân ấp áp. Các tình khu vực phía Nam nơi có thời tiết nắng ấm mùa đẻ của chim trĩ thường sớm hơn và kéo dài hơn. Ngoài ra số trứng, thời gian đẻ còn phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi, chế độ cho ăn và quản lý vật nuôi. Nếu cho ăn tặng lượng đạm động vật, canxi và sử dụng 1 số tác nhân phụ có thể cho chim trĩ đẻ 2 quả/ngày hoặc đẻ quanh năm theo ý thích của người nuôi. Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp khai thác trứng chim trĩ làm thương phẩm. Việc nhân giống chim không nên áp dụng, sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của chim bố mẹ cũng như chất lượng con giống sinh ra.
– Chim trĩ trong tự nhiên không tự ấp trứng, chim thường đẻ nhờ vào tổ chim khác. Vì vậy khi đưa vào nuôi trong môi trường nhân tạo ta phải dùng tác nhân phụ để ấp trứng cho chim. Tỉ lệ nở phụ thuộc vào 2 yếu tố: là chất lưng phôi trứng và kỹ thuật ấp. Thường có 2 cách cơ bản để ấp trứng trĩ:
+ Dùng vật nuôi khác có thân nhiệt và điều kiện ấp nở tương tự (Thường dùng, gà mái hoa mơ, gà tre …). Cách ấp này đơn giản như ấp trứng gia cầm thông thường tuy nhiên cho tỷ lệ thành công thấp và khó áp dụng cho nuôi quy mô lớn.
+ Dùng máy ấp: Sử dụng loại máy ấp trứng gia cầm thông thường để ấp. Thời gian ấp nở khoảng 22 – 23 ngày. Hiệu chỉnh nhiệt độ, độ ẩm tùy theo giai đoạn:
. Nhiệt độ ấp trong tuần đầu: 37,5 độ C, độ ẩm 55%.
. Tuần thứ 2: Nhiệt độ 37,3 độ C, độ ẩm 60%.
. Tuần thứ 3 trở đi nhiệt độ 37 độ, độ ẩm 75%.
* Lưu ý: sử dụng hoàn toàn nước cất để tạo độ ẩm, không dùng nước bẩn, có chứa tạp chất sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình bay hơi của nước.
– Các tia máu hình thành trong trứng trĩ thường rất mờ và khó phân biệt vì vậy đừng vội bỏ trứng ra khỏi lò xớm do bản thân bên trong trứng trĩ cũng có chất hóa học bảo quản trứng rất tốt . Thường thì những quả trứng không có sống mà ấp tới 15 ngày vẫn không bị thối như trứng gà trứng vịt vẫn có thể ăn bình thường mà không nguy hại cho sức khỏe.
– Sau nhiều năm nuôi thực nghiệm đến nay Vườn Chim Việt đã thành công trong phương thức ấp nở đạt tỉ lệ 70 – 80%. Tỉ lệ nuôi sống thành công sau ấp nở đạt 85% .
– Trong thời gian tới Vườn Chim Việt sẽ đầu tư nghiên cứu quy trình thụ tinh nhân tạo cho trĩ đỏ để mang lại hiêụ quả sản xuất con giống tốt hơn đáp ứng cho sức mua của thị trường nội địa.
3.9 Mật độ
Tuỳ thuộc vào điều kiện chuồng trại, khí hậu mà quyết định mật độ đàn nuôi.
– Nuôi trên lồng: 1 – 4 tuần tuổi: 30 – 40 con/m2.
– Nuôi trên nền sàn: sử dụng chất độn chuồng, có sân chơi:
+ Từ 5 – 9 tuần: 6 – 15 con/m2.
+ Từ 10 – 16 tuần tuổi: 3 – 5 con/m2.
3.10 Vệ sinh phòng bệnh
– Khả năng chim Trĩ bị nhiễm, mắc các bệnh là rất cao. Với phương châm phòng bệnh là chính, đảm bảo nghiêm ngặt những quy định về vệ sinh phòng bệnh, sử dụng quy trình vệ sinh phòng bệnh tuỳ thuộc vào tình hình dịch tễ của từng địa phương. Phải quan sát theo dõi đàn chim thường xuyên như: Trạng thái ăn, ngủ, thể trạng, âm thanh tiếng thở, chất bài tiết, … để bất kỳ một dấu hiệu bất thường nào đều được xử lý kịp thời. Cần thiết phải kiểm tra đàn chim dựa trên các đặc điểm hàng ngày như sau:
+ Lắng nghe âm thanh bất thường hoặc thiếu vắng âm thanh hàng ngày.
+ Trạng thái đàn chim (uể oải hay hung hăng).
+ Ngửi để xem có mùi khai hay sự kém thông thoáng.
– Trong chuồng chỉ nuôi chim không nuôi chung với các động vật khác. Định kỳ diệt trừ các loài động vật gặm nhấm, chim hoang và côn trùng có hại khác.
2.10 Chăm sóc nuôi dưỡng
– Chim được cho ăn tự do 24h/24h trong 4 tuần đầu, ban ngày dùng ánh sáng tự nhiên, đêm thắp điện sáng để chim ăn đêm. Trong điều kiện thời tiết và nhiệt độ thuận lợi (ấm áp khô ráo) sau 4 tuần tuổi (nếu thời tiết lạnh dưới 200C thì sau 6 – 7 tuần tuổi) có thể cho chim vận động giống như trong tự nhiên để giúp cơ săn chắc nâng cao chất lượng thịt.
– Mức tiêu thụ thức ăn: Số lượng thức ăn được chim trĩ tiêu thụ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như dạng thức ăn, phương thức cho ăn, thành phần dinh dưỡng và các điều kiện thời tiết. Một con chim trĩ từ 1 ngày tuổi cho tới khi xuất bán tại thời điểm 16 tuần tuổi sẽ ăn khoảng 5 kg thức ăn. Tại độ tuổi này, các con trống khối lượng khoảng 1,3kg và con mái là 1,0kg.
IV. Một số bệnh thường gặp
Các bệnh thường gặp khi nuôi chim trĩ đỏ:
– Bệnh tiêu chảy, Ecoli : chủ yếu sảy ra sau quá trình vận chuyển hoặc môi trường nuôi không đảm bảo: Dùng Vaccin đặc trị Ecoli cho gia cầm tiêm hoặc cho uống (liều lượng bằng 2,5 lần hướng dẫn trên bao bì).
– Bệnh về đường hô hấp: (hen phổi, nấm phổi): Chim có hiện tượng thở khò khè, chảy nước mũi,thở ngáp rồi chết. Nguyên nhân do thay đổi thời tiết, hoặc mật đồ nuôi dày. Cách trị : Dùng thuốc đặc trị hen của gà nhỏ trực tiếp với liều dùng bằng 2 lần hướng dẫn sử dụng trên bao bì. Điều chỉnh lại mật độ nuôi, vệ sinh chuồng nuôi bằng thuốc khử trùng.
– Bệnh đau mắt (sưng mặt): Biểu hiện: Mắt chim có màng đục nhắm lại, 1 trong hai bên má sưng. Chim bị mù dẫn đến không thể tự ăn, uống được mà chết. Cách trị: Dùng thuốc nhỏ mắt của người nhỏ từ 3 – 5 giọt. Kết hợp với tiêm nếu phát hiện trong mắt có giun, sán.
– Ngoài ra trong quá trình nuôi chim trĩ thường mắc 1 số bệnh khác ít thấy biểu hiện trên gia cầm thông dụng. Để đảm bảo tỉ lệ nuôi thành công thì khâu vệ sinh chuồng trại là 1 yếu tố rất quan trọng. Đồng thời những cá nhân mới gây nuôi nên đến trực tiếp các trang trại, cá nhân có nhiều năm kinh nghiệm nuôi trĩ để tham khảo học tập kinh nghiệm.
4.1. Bệnh do virút gây ra
4.1.1 Bệnh Newcastle
– Đặc điểm chung: Do virút gây ra, là bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với gia cầm và chim. Lây lan nhanh, mạnh. Gây ốm và chết nhiều ở mọi lứa tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm. Không thể chữa bằng thuốc, chỉ có thể phòng bằng vacxin.
– Đường lây lan: Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá. Do tiếp xúc giữa nhBng con ốm và con khoẻ. Do bụi, gió và không khí có mầm bệnh. Do phương tiện vận chuyển, thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh. Do dụng cụ chăn nuôi thú y nhiễm mầm bệnh. Do công nhân chăn nuôi, khách thăm quan đến từ vùng có bệnh. Do động vật, chim mang mầm bệnh.
– Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài): Chim ủ rũ mào thâm, ăn ít, chảy nhớt dãi. Diều căng, đầy hơi. Khó thở kèm theo tiếng kêu “tóc – tóc” nhất là ban đêm. Tiêu chảy, phân loãng có màu trắng, xanh, cứt cò. Chim ốm chết nhiều. Con sống sót để lại di chứng thần kinh, nghẹo cổ, đi vòng quanh, mổ thức ăn không chính xác. – Bệnh tích (những biểu hiện bên trong): Xuất huyết ở lỗ huyệt, thanh khí quản có nhiều dịch nhầy và xuất huyết. Dạ dày tuyến xuất huyết và loét. Thành ruột xuất huyết và loét hình cúc áo. Van hồi manh tràng xuất huyết
– Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh: không nên nuôi chung các lứa tuổi. Đảm bảo chuông nuôi, thức ăn, nước uống sạch sẽ ăn uống đủ chất đủ lượng. Biên pháp hữu hiệu nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh theo lịch ở các độ tuổi khác nhau.
+ Điều trị bệnh:
. Khi có bệnh Newcastle xảy ra nên thông báo ngay cho cán bộ thú y cơ sở. Dùng vacxin cho những đàn chưa mắc bệnh, bổ xung thuốc bổ tăng sức đề kháng cho đàn chim. Cách ly đàn chim ốm, đốt xác chim ốm, chết hoặc chôn rồi rắc vôi bột. Không bán chạy chim ốm. Không được đến thăm các nơi nuôi chim khác. Sát trùng chuồng nuôi, sân thả chim, dụng cụ chăn nuôi và khu vức xung quanh hàng ngày. Thu dọn chất thải phân đem đốt hàng ngày. Rắc vôi bột để cách ly chuồng nuôi với khu vực xung quanh và rắc ở lối ra vào chuồng nuôi, Khi đã nổ bệnh có thể đưa vacxin trở lại nhưng tỷ lệ khỏi bệnh không cao.
. Qua nghiên cứu các tài liệu khoa học và thực tế gây nuôi bảo tồn phát triển tại trang trại của Công ty cổ phần thực phẩm tiêu chuẩn GAP thấy rằng chim trĩ rất khó lây nhiễm các bệnh như bệnh Gumboro và bệnh đậu (Trang trại chúng tôi không tiêm phòng các Vacxin Gumboro và đậu gà, và cũng chưa thấy bất kỳ triệu chứng nào của các bệnh này). Trong khi đó bệnh Newcastle thì đặc biệt nguy hiểm đối chim trĩ, cần phải tiêm phòng đầy đủ, đúng liều lượng (2 lần Lasota trong thời gian úm 1 tháng, tiêm Newcastle lần 1 vào tháng thứ 2, lần 2 vào tháng 4, lần 3 vào cuối tháng 7).
4.1.2 Cúm A/H5N1
Tiêm chủng theo lịch của thú y địa phương.
4.2. Bệnh do vi khuẩn gây ra
4.2.1 Bệnh tụ huyết trùng
– Đặc điểm của bệnh: Do vi khuẩn gây nên. Chim các lứa tuổi đều mắc. Bệnh gây chết nhanh và nhiều trong cùng một thời gian. Bệnh hay tái phát trong cùng một khu vực. Có thể phòng bằng vacxin và điều trị bằng kháng sinh.
– Đường lây lan: Qua đường tiêu hoá, hô hấp, do thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh, do tiếp xúc giữa con ốm với con khoẻ.
– Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài): Tuỳ thuộc vào mức độ gây bệnh mà mầm bệnh có thể phát ra nhanh hay chậm. Trường hợp bệnh cấp tính: Chim chết đột ngột, đang đi lăn đùng ra chết. Chết khi đang nằm trong ổ đẻ. Trường hợp bệnh mãn tính: chim ủ rũ, bỏ ăn đi lại chậm chạp, nước nhầy chảy ra từ miệng, đôi khi lẫn máu, tích tím bầm. Phân lỏng hoặc xanh đôi khi có dính máu. Khó thở, chết do ngạt thở, xác tím bầm, máu đông kém. Nếu bệnh kéo dài, viêm kết mạc mắt, tích sưng, khớp sưng đi lại khó khăn.
– Bệnh tích (biểu hiện bên trong): Tụ huyết ở các cơ quan nội tạng. Gan sưng có nốt hoại tử lấm tấm trắng. Bao tim tích nước, xuất huyết vành tim, có dịch nhầy trong khớp.
– Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh
Vệ sinh sạch sẽ, giữ chuồng luôn khô ráo, thức ăn nước uống đảm bảo hợp vệ sinh, định kỳ sử dụng kháng sinh trộn thức ăn 3-5 ngày /lần.
Dùng vácxin phòng bệnh không bảo hộ tốt, vì hiệu giá của vacxin này trong thực tế không cao.
+ Điều trị: Có thể dùng các loại kháng sinh sau: Tetracylin, Streptomycine, Coxsmix forte, Neotezol, Ampicillin, Enrofloxacin. Liều lượng và thời dùng theo hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc.
4.2.2 Bệnh cầu trùng
– Đặc điểm chung: Bệnh do một loại ký sinh trùng đặc biệt gọi là cầu trùng có kích thước rất nhỏ gây nên. Chim mọi lứa tuôỉ đều mắc, nặng nhất là giai đoạn 2 – 8 tuần tuổi. bệnh xảy ra quanh năm nặng nhất vào vụ xuân hè khi thời tiết nóng ẩm. Chim nuôi nhốt chật chội, đệm lót chuồng ẩm ướt là điều kiện thụân lợi để bệnh bùng phát.
– Đường lây lan: Qua thức ăn, nước uống, chất độn chuồng … Noãn nang cầu trùng có sức đề kháng cao trong môi trường, có thể tồn tại hàng tháng trong điều kiện bình thường, khó bị tiêu diệt bằng các loại thuốc sát trùng, bị tiêu diệt chậm dưới ánh nắng mặt trời, dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao 600C.
– Triệu chứng (biểu hiện bên ngoài): Con vật ủ rũ bỏ ăn uống nhiều nước, phân lỏng, máu tươi hoặc có màu sôcôla sẫm. Chim con có thể chết hàng loạt nếu không điều trị kịp thời. Chim trưởng thành chậm lớn, chết rải rác kéo dài.
– Bệnh tích (biểu hiện bên trong): Cầu trùng manh tràng thì manh tràng sưng to chứa đầy máu. Cầu trùng ruột non thì ruột non căng phồng bên trong chứa đầy dịch nhầy lẫn máu.
– Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh: Đảm bảo các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Đặc biệt chú ý giữ cho lớp độn lót chuồng, sân chơi luôn khô ráo. Không nên nuôi chung chim các lứa tuổi, sử dụng NaOH nóng 2% hoặc quét vôi mới tôi để sát trùng nền chuồng trước khi đưa chim vào nuôi. Rắc vôi bột trước cửa chuồng, định kỳ dùng thuốc ức chế cầu trùng để phòng bệnh cho chim có thể sử dụng một số các loại thuốc sau: Octamit, Rigecoxcin. ESB3 … hoặc có thể dùng Virkon®S phun định kỳ 1 lần/tuần. Khi thời tiết ẩm ướt hoặc vào thời điểm có dịch bệnh gia cầm thì tăng cường 2 lần/tuần.
+ Điều trị: Dùng các loại thuốc như trên với liều điều trị theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Sử dụng kết hợp vitamin C, K và chất điện giải. Nhốt riêng những con bị bệnh nặng cho uống thuốc trực tiếp vào miệng sẽ nhanh khỏi. Thay độn chuồng mới, rắc vôi vào chỗ ẩm ướt.
4.3. Quy trình sử dụng thuốc và Vacxin phòng bệnh cho chim trĩ đỏ nuôi tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP
Trước khi bắt chim về 01 ngày, dùng Longlife hoặc Farm Fluid, Chloramin B, HanIodin,… phun sát trùng xung quanh chuồng, toàn bộ không khí và bề mặt trong chuồng: 100 ml/25 lít/82 m2 hoặc phun Virkon®S, pha theo hướng dẫn.
* Chú ý:
– Kháng sinh phổ rộng có thể dùng một số loại sau (dùng luân phiên để tránh nhờn thuốc): Genta Costrim, Vinacoc ACB (trị cầu trùng), CRD Stop, Ampicoli.
– Định kỳ mỗi tuần 1 lần sát trùng chuồng bằng Virkon S (10g/4 lít nước/14m2)
– Tiêm chủng cúm A/H5N1 theo lịch của thú y địa phương.
– Có thể cho trĩ uống nước tỏi 1 lần/tuần: Đập dập 2-3 củ tỏi sống, để trong không khí 15-20 phút sau đem hoà với 10-15/lít nước đem cho chim uống, bã tỏi rải quanh chuồng cho chim ngửi mùi. Các chất kháng sinh thực vật có trong tỏi tiêu diệt mạnh virus cúm gia cầm.
– Cho chim uống B-complex 2 lần/tuần.
– Cho chim uống Vitammin C 2 lần/tuần.
– Vào những ngày không ghi trong lịch trình, dùng A-T 112 hoạc Multisol G nhằm tăng sức đề kháng và giúp chim khỏe mạnh.
– Vào những ngày nắng nóng, cho uống A-T 111 (1 g/ 4 lít nước) và A-T 110 (1g/4 lít nước). Chú ý cho uống vào buối sáng.
– Có thể dùng Vitamin C thay thế A-T11
Điện thoại liên hệ: 097 448 0518 ( Mr: Phương )